Pages

Subscribe:

Ads 468x60px

Featured Posts

Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

Các mô hình hành vi và phát hành nợ thế chấp

     Các mô hình tính điểm thông kê (thưởng là mô hình Logit) liên hệ trạng thái vỡ nợ/ không vỡ nợ của các quan sát riêng lẻ với các biến quan sát được ví dụ như doanh thu, tuổi của tài khoản v.v. Có nhiều dạng mô hình trong lịch sử tín dụng có sẵn để đo lường những thuộc tính dự đoán uy tín tín dụng của khách hàng.

     Các mô hình hành vi mô phỏng hành vi của những khách hàng hiện có, khi không có sự kiện mới nào sẽ thay đổi mức độ nợ, theo dữ liệu lịch sử của tài khoản và hành vi khoản nợ. Chúng áp dụng cho những khách hàng hiện có, với dữ liệu lịch sử ít nhất 6 tháng. Mô hình làm cho việc xử lý các khách hàng có sẵn đơn giản hơn với các khách hàng mới vì họ không có lịch sử tín dụng.

Các mô hình hành vi và phát hành nợ thế chấp

     Các mô hình phát hành nợ thế chấp có mục tiêu mô tả uy tín tín dụng của những khách hàng mới hay khi những sản phẩm mới được ra đời cho những khách hàng đã có. Có hai loại mô hình phát hành nợ thế chấp. Với những khách hàng mới, có ít thông tin hơn mặc dù tất cả các ngân hàng sẽ thu thập một tập hợp dữ liệu tối thiểu về khách hàng, ví dụ như doanh thu, tiền bạc và hành vi của những tài khoản khác trong các ngân hàng khác. Do đó, ta không thể sử dụng nhũng thuộc tính giống như khi mô phỏng rủi ro của những khách hàng có sẵn.

     Lấy ví dụ một khách hàng hiện có yêu cầu một khoản vay mới. Một loại mô hình phát hành nợ thế chấp thứ hai là cần thiết vì ta đã có dữ liệu lịch sử về khách hàng. Trong trường hợp này, ta có một mô hình phát hành nợ thế chấp khác, áp dụng cho một khách hàng đã biết với uy tín tín dụng có thể bị ảnh hưởng bởi khoản vay mới. Đây cũng là một mô hình phát hành nợ thế chấp vì bắt đầu một khoản vay mới cho khách hàng đã có.


Những nhược điểm của mô hình tuyến tính cơ bản

        Một mô hình xác suất tuyến tính đơn giản có thể minh họa nguyên tắc. Mô hình xác suất tuyên tính biến xác suất p của một sự kiện thành một hàm tuyến tính của một vài thuộc tính Xj.

Những nhược điểm của mô hình tuyến tính cơ bản

        Mục tiêu là để liên hệ biến Bernoulli Y (1 = vỡ nợ hoặc 0 = không vỡ nợ) với các thuộc tính quan sát được. Những điều cơ bản với chi một thuộc tính X hay nhiều thuộc tính đều giống nhau.

 Mô hình là:Y = a+px + e

Y bằng 0 hoặc 1. Lấy giá trị kỳ vọng của Y và sử dụng giá trị kỳ vọng bằng 0 cho sốhạng sai số của hổi quy:

£(r) = 1 XP(7 = 1) + Ox[l - P(7 = 0)]

P(Y)  = a + PE{X)

         Mô hình tính ra xác suất của y bằng 1 hay xác suất vỡ nợ. Tất cả các giá trị quan sát được của y là 0 hoặc 1. Nhưng hổi quy tuyến tính tính ra những hệ số khiếny có thể nhận các giá trị không nhất thiết nằm trong khoảng 0 đến 1. Điều này có nghĩa là phải cắt xén để tránh các giá trị ngoại lệ đó. Các mô hình Logit tránh được nhược điểm này.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tài chính

Những nguyên tắc chung cho thế chấp CRM

         Hội đồng đã áp dụng một định nghĩa thế chấp hợp lệ rộng hơn so với Hiệp Ước 1988 trong cách tiếp cận tiêu chuẩn của Basel 2. Ngân hàng có thể công nhận những tài sản sau là thế chấp:

  • tiền mặt

  • những cổ phiếu nợ nhất định được phát hành bởi quốc gia, những tổ chức trong khu vực công, ngân hàng, công ty chứng khoán và doanh nghiệp

  • những cổ phiếu nhất định được trao đổi trên các sàn được công nhận

  • những cổ phần trong quỹ tương hỗ

  • vàng
         Có một sàn vốn ký hiệu IV,bởi vì giao dịch có thế chấp không bao giờ không có rủi ro (trừ với tiền mặt). Giá trị thông thưởng của w là 0,15.

        Basel 2 công nhận thế chấp chỉ nếu giá trị của nó không phụ thuộc vào uy tín tín dụng của đối tượng. Chất lượng tín dụng của người đi vay và giá trị của vật thế chấp không thê có tương quan dương. Ví dụ, cổ phiếu phát hành bởi chính người đi vay sẽ tạo ra rất ít sự bảo hộ và không hợp lệ.

Những nguyên tắc chung cho thế chấp CRM

        Trong vay mượn cổ phiếu, người cho vay tiền mặt nắm giữ cổ phiếu làm thế chấp, giá trị của cổ phiếu có thể giảm xuống dưới khoản tiền cho vay ngay cả nếu ban đầu, giao dịch có thế chấp quá cao.

       Những luật giám sát cho phép bù trừ nguy cơ với giá trị vật thế chấp, chịu chi phổi bời ‘haircuts”. Haircuts là phần trăm giá trị do những thay đổi thời gian của nguy cơ và thế chấp và do chênh lệch kỳ hạn và tiền tệ giữa nguy cơ và thế chấp. Có hai loại haircuts: haircuts giám sát tiêu chuẩn và những ước lượng của các ngân hàng về độ biến động của vật thế chấp.

       Như một quy luật chung, phần được đảm bảo bới giá trị điều chỉnh theo haircut của vật thế chấp có trọng số rủi ro ứng với công cụ thế chấp. trọng số rủi ro này có sàn 20% trừ trong một số trường hợp nhất định, ví dụ khi thế chấp là tiền mặt hay khi nó là khoản vay của một quốc gia hay cổ phiếu PSE (tổ chức khu vực công), khi đó trọng số rủi ro là 0%.

       Phần còn lại của khoản nợ không có đảm bảo và được chỉ định trọng số rủi ro của đối tượng đó. Khi có nhiều thế chấp, nguy cơ được chia thành nhiều phần, mỗi phần được chi định một loại CRM.

       Giảm thiểu rủi ro tín dụng bị điều phôi bởi hai cách tiếp cận: ‘đơn giản’ và ‘toàn diện’. Theo cách tiếp cận đơn giản, ngân hàng thay thế trọng số rủi ro của vật thế chấp bằng họng số rủi ro của đối tượng, đối với phần có thế chấp của nguy cơ (với sàn 20%). Điều này tương tự như Hiệp Ước 1988.

       Cách tiếp cận toàn diện cho phép bù trừ nguy cơ bằng thế chấp. Các ngân hàng có thể giảm nguy cơ bằng giá trị của thếchấp. Họ có thể dùng một trong hai cách tiếp cận trên trong sổ ngân hàng, nhưng số giao dịch thì chỉ dùng cách tiếp cận toàn diện. Thế chấp một phần cũng được công nhận. Chỉ có cách tiếp cận toàn diện cho phép chênh lệch kỳ hạn giữa nguy cơ cơ sở và vật thếchấp.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghiệp vụ tín dụng ngân hàng

Tính kinh tế học của hệ thống tính điểm

       Sử dụng tính điểm có những hệ quả kinh tế là chi phí tương đối của việc từ chối một tín dụng tốt và chấp nhận tín dụng xấu.

        Tính điểm, cũng giống như các kỹ thuật khác, có thể không đưa ra những dự đoán chính xác. Trên một giá trị nào đó, xác suất phá sản là không đáng kể và thấp dưới một giá trị nào đó, xác suất vỡ nợ gần bằng 1. Trong khoảng giữa, quan hệ giữa xác suất vỡ nợ và giá trị của điểm được mô phỏng bởi điểm. Sử dụng theo cách này, ta có một công cụ dự đoán vỡ nợ và xếp hạng. Các loại lỗi với quyết định dựa trên điểm là:

Lỗi loại I – chấp nhận tín dụng xấu

Lỗi loại II – từ chốitín dụng tốt

Tính kinh tế học của hệ thống tính điểm
        Vì chi phí của hai loại lỗi này tất khác nhau, kinh tế học của lỗi có ảnh hưởng tói giá trị của điểm ngắt đề đưa ra các quyết định cho vay. Với các quyết định cá nhân, lỗi loại I gây ra việc mất hoàn toàn tiền gốc và lãi nếu rủi ro trở thành sự thật. Chi phí lỗi loại II là chi phí cơ hội vì không cho một người giàu có vay tiền. Chi phí cơ hội là thu nhập bị mất.

        Do đó, chi phí của lỗi II thấp hơn nhiều so với loại I. Dựa trên những nguyên tắc kinh tế đơn giàn này, lỗi loại II dễ chấp hơn lỗi loại I vì thua lỗ ít hơn. Vì các giá trị ngắt của mô hình tính điểm quyết định xác suất của lỗi loại I và II, lựa chọn chúng phụ thuộc vào cả chất lượng của dự đoán và chênh lệch chi phí của hai loại lỗi.

       Theo đó, tính điểm không chi áp dụng với phép đo rủi ro tín dụng. Nó mở rộng sang các thuộc tính biểu thị cho mức độ giàu có tiềm năng của một khách hàng. Mức độ giàu có liên quan tới doanh thu tương lai và “mức độ dịch vụ”, ví dụ như số lượng tài khoản và dịch vụ với một khác hàng và những giao dịch tương lai, ví dụ như các khoản vay mới và thẻ tín dụng mới. “Mức độ dịch vụ” và tính lợi nhuận dự kiến là những tiêu chí có liến quan tới hồ sơ của một cá nhân và trùng với những tiêu chí đánh giá xác suất võ nợ.

       Các ngân hàng có thể yêu cầu từ khách hàng tiềm năng những dữ liệu về các tài khoản khác để kiểm tra dòng tiền của các tài khoản và số dư.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quan tri rui ro