Phần lớn các thống kê dựa trên thống kê công khai của các cơ quan xếp hạng tín dụng. Tuy nhiên, có một số nghiên cứu có giá trị tuy chúng đã cũ hơn. Các nghiên cứu đó bao gồm bài phân tích của Asarnow về vỡ nợ cho vay trong 24 năm, bài của Carty và Lieberman hay các tài liệu của Altman. Trong chương này ta chủ yêu dựa vào dữ liệu của các cơ quan xếp hạng có sẵn công khai và tương đối gần đây.
Xếp hạng bên ngoài ứng với tỷ lệ vỡ nợ hàng năm và tích lũy. Dữ liệu lịch sử báo cáo thông kê rủi ro như là một tần suất, sốlượng hoặc tỷ lệ của một mẫu tham chiếu. Các tỷ lệ này là số học hoặc gia trọng, đặc biệt với tỷ lệ vỡ nợ, gia trọng bằng kích cỡ của trái phiếu vỡ nợ. Ta sử dụng tỷ lệ dựa trên số lượng công ty thay vì tỷ lệ gia trọng bằng giá trị. Khi tính toán tỷ lệ vỡ nợ, cẩn phải xem xét số lượng công ty sống sót vào đầu giai đoạn. Quá trình bao gồm các bước sau:
- Tổng hợp dữ liệu vỡ nợ cho một số lượng nhất định các công ty được xếp hạng vào lúc bắt đầu giai đoạn và vẫn được xếp hạng vào cuối giai đoạn.
- Chia nhỏ nhóm thành các tiểu danh mục đầu tư theo bậc uy tín.
- Tính toán tỷ lệ vỡ nợ là tỷ số giữa số các vụ vỡ nợ so với tổng số các công ty sông sót vào đầu giai đoạn.
Trong thực tế, khi bắt đầu với dữ liệu từ các cơ quan xếp hạng bên ngoài, dữ liệu sẽ có những công ty không còn tồn tại trong cơ sở dữ liệu vào cuối giai đoạn. Nêu ta lựa chọn một năm nhất định bắt đầu vào thời điểm ấy, số các công ty được xếp hạng tồn tại vào ngày đầu tiên sẽ khác số công ty vào ngày cuối do những xếp hạng biến mất hoặc các vụ sát nhập. Thông tin này được tách biệt để xác định tần suất vợ nợ lịch sử và thay đổi xếp hạng tín dụng. Các bảng của các cơ quan xếp hạng cung cấp xác suất vỡ nợ tích lũy cho một nhóm được định ra vào một ngày bắt đầu cho tới bất kỳ ngày tương lai nào.
Tương quan trong nhiều năm cũng sử dụng nhóm các công ty được định nghĩa ở những thời điểm khác nhau và bình quân dữ liệu theo bậc xếp hạng cho các nhóm.
Từ
khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tín dụng trong ngân hàng