Pages

Subscribe:

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

Tìm hiêu thống kê phục hồi

    Thống kê phục hồi chủ yếu dựa vào giá của các trái phiếu và khoản vay đã bị vỡ nợ, tính bằng tỷ số giữa giá trị sau khi vỡ nợ với mệnh giá. Tỷ lệ phục hồi thay đổi tùy vào mức độ cao cấp. Độ lệch từ giá trị trung bình khá rộng, do đó phạm vi thực của các loại nợ có thể trùng nhau. Một điều được Moody’s chi ra là tỷ lệ hồi phục có vẻ như có tương quan với điều kiện kinh tế. Do đó, khi điều kiện kinh tế xấu đi, xác suất hồi phục cũng suy giảm. Phần lớn các mô hình sử dụng phục hồi là một đầu vào không tính đến những tương quan như vậy. Bình phương của hồi quy của tỷ lệ phục hồi so với tỷ lệ vỡ nợ là 64%, với hệ số âm cho tỷ lệ vỡ nợ (Moody’s, 2007).

Tìm hiêu thống kê phục hồi

Phục hồi là một yếu tố quyết định thua lỗ khi vỡ nợ. Do đó, Hiệp ước mới tập trung vào xây dựng dữ liệu hồi phục. Dữ liệu hồi phục của mức độ cao cấp, loại sản phẩm và bản chất của đảm bảo sẽ giúp phân biệt rõ hơn tỷ lệ phục hồi trung bình cho những bậc xếp hạng khác nhau. Chú ý những hạng mục tài sản ví dụ như tài chính chuyên dụng, dữ liệu phục hồi hiếm hơn với các doanh nghiệp. Những chiến dịch thu thập dữ liệu giữa các ngân hàng vẫn đang tiếp diễn.

Với thời gian, rủi ro cải thiện hoặc xấu đi. Những sự dịch chuyển này được phản ánh bằng tần suất chuyển đổi giữa các nhóm rủi ro. Trong một khoảng thời gian nhất định, tỷ lệ chuyển đổi giữa các nhóm xếp hạng là tần suất chuyển đổi chia cho số lượng công ty ban đầu trong mỗi nhóm rủi ro.

Vì tần suất chuyển đổi cao hơn giữa những nhóm xếp hạng cạnh nhau, tỷ lệ cao nhất gần đường chéo của ma trận. Mỗi cột và hạng là một hạng mục xếp hạng. Cột trước cột cuối cùng là tần suất vỡ nợ của mỗi nhóm xếp hạng. Cột cuối cùng là tỷ lệ những xếp hạng bị rút lại vì công ty không còn tồn tại. Tổng tất cả các xác suất chuyển đổi cộng với phần trăm những xếp hạng bị rút lại là 1 vì mỗi hàng liệt kê tất cả những trạng thái cuối cùng có thể xảy ra. Ma trận chuyển đổi có những giới hạn sau:
  • Tất cả các tổng trong một hàng là 1 vì chúng nhóm tất cả những chuyển đổi có thể xảy ra với trạng thái vỡ nợ.

  • Tất cả các xác suất chuyển đổi là dương và thấp hơn 1
Chuyển đổi, thay vì bình quân dài hạn, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế hiện thời. Khi mô phỏng các tỷ lệ vỡ nợ, tất cả các tỷ lệ chuyển đổi phải dịch chuyển để đảm bảo tính nhất quán của ma trận. Mô hình như vậy tồn tại trong mô hình kinh tế lượng của danh mục đầu tư tín dụng.

Có thể ứng các xếp hạng với chênh lệch tín dụng trong thị trường. Do đó có thể ấn định những chênh lệch tín dụng khác nhau cho trạng thái tín dụng cuối cùng, và định giá một khoản vay hay một trái phiếu theo đó. Điều này cho phép tạo ra phân phối giá trị vào một thời điểm tương lai cho bất kỳ tài sản nào với hạng mục xếp hạng ban đầu đã biết. Đây là một cách thức thông thường để định giá rủi ro chuyển dịch trong các mô hình rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, chênh lệch tín dụng không chỉ phụ thuộc vào nhóm xếp hạng. Phân tích thống kê với chênh lệch tín dụng cho thấy chúng phụ thuộc chủ yếu vào nhóm xếp hạng, ngành công nghiệp, vùng địa lý với một hạng mục tài sản nhất định, ví dụ như doanh nghiệp.