Phương pháp vốn dựa trên xếp hạng nội bộ của Hiệp ước Basel 2 khiến cho xếp hạng nội bộ có một giá trị quan trọng. Theo Basel 2, cả xếp hạng nội bộ và điểm sẽ khớp với một thang xác suất vỡ nợ. Việc ứng khớp này có nghĩa là tương quan giữa xếp hạng và xác suất vỡ nợ bằng 1, hay xác suất vỡ nợ trên thang điểm là hàm đơn điệu của xếp hạng. Nhìn chung, khi không dùng điểm, xếp hạng phải một phân dựa trên đánh giá chuyên gia và danh mục đầu tư tương ứng thưởng là những danh mục đầu tư ít vỡ nợ. Do đó, thống kê nội bộ không thể dùng để tính ra xác suất vỡ nợ từ xếp hạng nội bộ.
Cách thức đơn giản nhất là ứng xếp hạng nội bộ với xếp hạng bên ngoài và sử dụng sự tương ứng giữa xếp hạng bên ngoài với xác suất vỡ nợ để tìm ra mối liên hệ giữa xếp hạng nội bộ và xác suất vỡ nợ. Điều này nghe có vẻ đơn giản, nhưng trong thực tế có nhiều khó khăn. Các phương pháp phải giống nhau ở một mức tối thiểu để đảm bảo xếp hạng nội bộ nhất quán với xếp hạng bên ngoài. Những chênh lệch được làm rõ bằng cách lên bảng chéo giữa xếp hạng nội bộ và xếp hạng bên ngoài và đảm bảo những khác biệt thời gian giữa chúng không quá xa nhau. Thông thường, sẽ có sự tập trung trên đường chéo, những số liệu ngoại lệ phải được kiểm tra.
Xem xét những xếp hạng bên ngoài trước, đồ thị tần xuất vỡ nợ hàng năm theo bậc xếp hạng không tăng đơn diệu, ít nhất khi dùng thang xếp hạng với 20-30 bậc. Xếp hạng không khớp xếp hạng tần suất vỡ nợ, ngay cả khi lấy bình quân dài hạn của các tần suất vỡ nợ hàng năm. Làm “mượt” đồ thị là một phương pháp cần thiết.
Thứ hai, tần suất vỡ nợ lịch sử từ các các cơ quan không tiêu biểu cho danh mục đầu tư của các ngân hàng. Có khoảng 5000 doanh nghiệp được niêm yết và xếp hạng. Coi danh mục đầu tư của những tập đoàn lớn là tiêu biểu cho danh mục đầu tư của ngân hàng là điều sai lầm trừ “danh mục đầu tư ít vỡ nợ” của các ngân hàng đầu tư làm việc với các tập đoàn lớn. Hơn nữa, những doanh nghiệp kích cỡ nhỏ hơn nhìn chung có xác suất vỡ nợ cao hơn những doanh nghiệp rất lớn.
Từ
khóa tìm kiếm nhiều: danh muc dau tu