Pages

Subscribe:

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Xếp hạng tín dụng và liên hệ giữa các đối tác

        Xếp hạng nội bộ dành cho đối tác hay người phát hành, không phải xếp hạng khoản vay. Trong nhiều trường hợp, xếp hạng có thể áp dụng với các đôi tác khác ngoài người đi vay trực tiếp. Một trường hợp thông thường là đảm bảo của bên thứ ba hay thế chấp, vì có thể thay thế xếp hạng của người đi vay trực tiếp bằng xếp hạng thế chấp hay người đảm bảo. Điều này có nghĩa là phải mở rộng xếp hạng ra ngoài người đi vay trực tiếp sang những người đảm bảo và người phát hành các cổ phiếu dùng làm thế chấp.

         Mối liên hệ pháp lý giữa người đi vay trực tiếp và một tổ chức khác ví dụ như quan hệ công ty con/công ty góp cổ phân phải được ghi chép lại và đánh giá rủi ro. Bất kể khỉ nào người đi vay trực tiếp phụ thuộc vào một tổ chức khác ví dụ như một tập đoàn, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào hỗ trợ tiềm năng của tập đoàn và sẽ gây ra nguy cơ gián tiếp trong rủi ro của tập đoàn. Nếu không xem xét cả hỗ trợ, một doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thuộc về một tập đoàn sẽ được đánh giá giống như một SME độc lập không thuộc về bất kỳ tập đoàn nào.

Xếp hạng tín dụng và liên hệ giữa các đối tác

         Một phân quan trọng của phép đo rủi ro tín dụng và xếp hạng nội bộ là cơ sở dữ liệu nội bộ của các đối tác. Co sở dữ liệu phải ghi chép lại những liên hệ này. Quản lý hệ thống cấp bậc của các đối tác là điều quan trọng, nếu không người cho vay sẽ không xác định được họ đang gặp rủi ro với ai. Các quy tắc chuyển giao rủi ro tín dụng định rõ khi nào nguy cơ với một người đi vay trực tiếp trở thành nguy cơ với lãnh đạo tập đoàn, vì thưởng người lãnh đạo tập đoàn sẽ có hỗ trợ lớn. Chuyên giao rủi ro tín dụng cũng áp dụng khi quy tắc thay thế được thực thi với giảm thiếu rủi ro tín dụng theo Basel 2. Khinào chuyển giao rủi ro tín dụng áp dụng, cả xếp hạng của người đi vay trực tiếp và của tổ chức rủi ro sẽ được chuyển giao phải được ghi chép.

         Theo dõi hệ thống cấp bậc của các đơn vị không phải là một công việc đơn giản. Các tập đoàn hay sát nhập và mua lại. Những liên hệ như vậy phải được theo dõi. Các hệ thống công nghệ thông tin hiện đại có riêng một mô-đun hoàn thiện để quản lý những hệ thống cấp bậc đó của các đơn vị và giúp những người phân tích hiểu rõ ngân hàng đang gặp rủi ro với ai.

      Một phần quan trọng khác của hệ thống là quản lý ký hiệu nhận dạng của đối tác. Tên là không đủ. Ví dụ, Continental có thể là một hãng hàng không hoặc một nhà sản xuất các sản phẩm ô tô. Tương tự, IBM và International Business Machines là cùng một thực thể. Tên là không đủ để định danh một đối tác cụ thể. Các tên thưởng được sử dụng bao gồm các mã CUSIP và ISIN và băng điện báo. Hệ thông quản lý đối tác phải bao gồm một sơ đồ được theo dõi thường trực ứng những tên nhận dạng nôi bộ của đốitác của ngân hàng với những tên nhận dạng bên ngoài.

        Nhiều nguy cơ trực tiếp thực ra là những nguy cơ gián tiếp với nhiều người đi vay. Nguy cơ với chứng khoán hóa hay quỹ là những nguy cơ cho người phát hành tài sản trong danh mục đầu tư. Một chính sách “nhìn xuyên qua” xác định nguy cơ gián tiếp cho người đi vay đặt ra những vấn đề, vì thông tin không được tiết lộ hoặc quá phức tạp để quản lý.