Pages

Subscribe:

Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

Các mô hình hành vi và phát hành nợ thế chấp

     Các mô hình tính điểm thông kê (thưởng là mô hình Logit) liên hệ trạng thái vỡ nợ/ không vỡ nợ của các quan sát riêng lẻ với các biến quan sát được ví dụ như doanh thu, tuổi của tài khoản v.v. Có nhiều dạng mô hình trong lịch sử tín dụng có sẵn để đo lường những thuộc tính dự đoán uy tín tín dụng của khách hàng.

     Các mô hình hành vi mô phỏng hành vi của những khách hàng hiện có, khi không có sự kiện mới nào sẽ thay đổi mức độ nợ, theo dữ liệu lịch sử của tài khoản và hành vi khoản nợ. Chúng áp dụng cho những khách hàng hiện có, với dữ liệu lịch sử ít nhất 6 tháng. Mô hình làm cho việc xử lý các khách hàng có sẵn đơn giản hơn với các khách hàng mới vì họ không có lịch sử tín dụng.

Các mô hình hành vi và phát hành nợ thế chấp

     Các mô hình phát hành nợ thế chấp có mục tiêu mô tả uy tín tín dụng của những khách hàng mới hay khi những sản phẩm mới được ra đời cho những khách hàng đã có. Có hai loại mô hình phát hành nợ thế chấp. Với những khách hàng mới, có ít thông tin hơn mặc dù tất cả các ngân hàng sẽ thu thập một tập hợp dữ liệu tối thiểu về khách hàng, ví dụ như doanh thu, tiền bạc và hành vi của những tài khoản khác trong các ngân hàng khác. Do đó, ta không thể sử dụng nhũng thuộc tính giống như khi mô phỏng rủi ro của những khách hàng có sẵn.

     Lấy ví dụ một khách hàng hiện có yêu cầu một khoản vay mới. Một loại mô hình phát hành nợ thế chấp thứ hai là cần thiết vì ta đã có dữ liệu lịch sử về khách hàng. Trong trường hợp này, ta có một mô hình phát hành nợ thế chấp khác, áp dụng cho một khách hàng đã biết với uy tín tín dụng có thể bị ảnh hưởng bởi khoản vay mới. Đây cũng là một mô hình phát hành nợ thế chấp vì bắt đầu một khoản vay mới cho khách hàng đã có.


Những nhược điểm của mô hình tuyến tính cơ bản

        Một mô hình xác suất tuyến tính đơn giản có thể minh họa nguyên tắc. Mô hình xác suất tuyên tính biến xác suất p của một sự kiện thành một hàm tuyến tính của một vài thuộc tính Xj.

Những nhược điểm của mô hình tuyến tính cơ bản

        Mục tiêu là để liên hệ biến Bernoulli Y (1 = vỡ nợ hoặc 0 = không vỡ nợ) với các thuộc tính quan sát được. Những điều cơ bản với chi một thuộc tính X hay nhiều thuộc tính đều giống nhau.

 Mô hình là:Y = a+px + e

Y bằng 0 hoặc 1. Lấy giá trị kỳ vọng của Y và sử dụng giá trị kỳ vọng bằng 0 cho sốhạng sai số của hổi quy:

£(r) = 1 XP(7 = 1) + Ox[l - P(7 = 0)]

P(Y)  = a + PE{X)

         Mô hình tính ra xác suất của y bằng 1 hay xác suất vỡ nợ. Tất cả các giá trị quan sát được của y là 0 hoặc 1. Nhưng hổi quy tuyến tính tính ra những hệ số khiếny có thể nhận các giá trị không nhất thiết nằm trong khoảng 0 đến 1. Điều này có nghĩa là phải cắt xén để tránh các giá trị ngoại lệ đó. Các mô hình Logit tránh được nhược điểm này.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tài chính

Những nguyên tắc chung cho thế chấp CRM

         Hội đồng đã áp dụng một định nghĩa thế chấp hợp lệ rộng hơn so với Hiệp Ước 1988 trong cách tiếp cận tiêu chuẩn của Basel 2. Ngân hàng có thể công nhận những tài sản sau là thế chấp:

  • tiền mặt

  • những cổ phiếu nợ nhất định được phát hành bởi quốc gia, những tổ chức trong khu vực công, ngân hàng, công ty chứng khoán và doanh nghiệp

  • những cổ phiếu nhất định được trao đổi trên các sàn được công nhận

  • những cổ phần trong quỹ tương hỗ

  • vàng
         Có một sàn vốn ký hiệu IV,bởi vì giao dịch có thế chấp không bao giờ không có rủi ro (trừ với tiền mặt). Giá trị thông thưởng của w là 0,15.

        Basel 2 công nhận thế chấp chỉ nếu giá trị của nó không phụ thuộc vào uy tín tín dụng của đối tượng. Chất lượng tín dụng của người đi vay và giá trị của vật thế chấp không thê có tương quan dương. Ví dụ, cổ phiếu phát hành bởi chính người đi vay sẽ tạo ra rất ít sự bảo hộ và không hợp lệ.

Những nguyên tắc chung cho thế chấp CRM

        Trong vay mượn cổ phiếu, người cho vay tiền mặt nắm giữ cổ phiếu làm thế chấp, giá trị của cổ phiếu có thể giảm xuống dưới khoản tiền cho vay ngay cả nếu ban đầu, giao dịch có thế chấp quá cao.

       Những luật giám sát cho phép bù trừ nguy cơ với giá trị vật thế chấp, chịu chi phổi bời ‘haircuts”. Haircuts là phần trăm giá trị do những thay đổi thời gian của nguy cơ và thế chấp và do chênh lệch kỳ hạn và tiền tệ giữa nguy cơ và thế chấp. Có hai loại haircuts: haircuts giám sát tiêu chuẩn và những ước lượng của các ngân hàng về độ biến động của vật thế chấp.

       Như một quy luật chung, phần được đảm bảo bới giá trị điều chỉnh theo haircut của vật thế chấp có trọng số rủi ro ứng với công cụ thế chấp. trọng số rủi ro này có sàn 20% trừ trong một số trường hợp nhất định, ví dụ khi thế chấp là tiền mặt hay khi nó là khoản vay của một quốc gia hay cổ phiếu PSE (tổ chức khu vực công), khi đó trọng số rủi ro là 0%.

       Phần còn lại của khoản nợ không có đảm bảo và được chỉ định trọng số rủi ro của đối tượng đó. Khi có nhiều thế chấp, nguy cơ được chia thành nhiều phần, mỗi phần được chi định một loại CRM.

       Giảm thiểu rủi ro tín dụng bị điều phôi bởi hai cách tiếp cận: ‘đơn giản’ và ‘toàn diện’. Theo cách tiếp cận đơn giản, ngân hàng thay thế trọng số rủi ro của vật thế chấp bằng họng số rủi ro của đối tượng, đối với phần có thế chấp của nguy cơ (với sàn 20%). Điều này tương tự như Hiệp Ước 1988.

       Cách tiếp cận toàn diện cho phép bù trừ nguy cơ bằng thế chấp. Các ngân hàng có thể giảm nguy cơ bằng giá trị của thếchấp. Họ có thể dùng một trong hai cách tiếp cận trên trong sổ ngân hàng, nhưng số giao dịch thì chỉ dùng cách tiếp cận toàn diện. Thế chấp một phần cũng được công nhận. Chỉ có cách tiếp cận toàn diện cho phép chênh lệch kỳ hạn giữa nguy cơ cơ sở và vật thếchấp.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghiệp vụ tín dụng ngân hàng

Tính kinh tế học của hệ thống tính điểm

       Sử dụng tính điểm có những hệ quả kinh tế là chi phí tương đối của việc từ chối một tín dụng tốt và chấp nhận tín dụng xấu.

        Tính điểm, cũng giống như các kỹ thuật khác, có thể không đưa ra những dự đoán chính xác. Trên một giá trị nào đó, xác suất phá sản là không đáng kể và thấp dưới một giá trị nào đó, xác suất vỡ nợ gần bằng 1. Trong khoảng giữa, quan hệ giữa xác suất vỡ nợ và giá trị của điểm được mô phỏng bởi điểm. Sử dụng theo cách này, ta có một công cụ dự đoán vỡ nợ và xếp hạng. Các loại lỗi với quyết định dựa trên điểm là:

Lỗi loại I – chấp nhận tín dụng xấu

Lỗi loại II – từ chốitín dụng tốt

Tính kinh tế học của hệ thống tính điểm
        Vì chi phí của hai loại lỗi này tất khác nhau, kinh tế học của lỗi có ảnh hưởng tói giá trị của điểm ngắt đề đưa ra các quyết định cho vay. Với các quyết định cá nhân, lỗi loại I gây ra việc mất hoàn toàn tiền gốc và lãi nếu rủi ro trở thành sự thật. Chi phí lỗi loại II là chi phí cơ hội vì không cho một người giàu có vay tiền. Chi phí cơ hội là thu nhập bị mất.

        Do đó, chi phí của lỗi II thấp hơn nhiều so với loại I. Dựa trên những nguyên tắc kinh tế đơn giàn này, lỗi loại II dễ chấp hơn lỗi loại I vì thua lỗ ít hơn. Vì các giá trị ngắt của mô hình tính điểm quyết định xác suất của lỗi loại I và II, lựa chọn chúng phụ thuộc vào cả chất lượng của dự đoán và chênh lệch chi phí của hai loại lỗi.

       Theo đó, tính điểm không chi áp dụng với phép đo rủi ro tín dụng. Nó mở rộng sang các thuộc tính biểu thị cho mức độ giàu có tiềm năng của một khách hàng. Mức độ giàu có liên quan tới doanh thu tương lai và “mức độ dịch vụ”, ví dụ như số lượng tài khoản và dịch vụ với một khác hàng và những giao dịch tương lai, ví dụ như các khoản vay mới và thẻ tín dụng mới. “Mức độ dịch vụ” và tính lợi nhuận dự kiến là những tiêu chí có liến quan tới hồ sơ của một cá nhân và trùng với những tiêu chí đánh giá xác suất võ nợ.

       Các ngân hàng có thể yêu cầu từ khách hàng tiềm năng những dữ liệu về các tài khoản khác để kiểm tra dòng tiền của các tài khoản và số dư.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quan tri rui ro

Lợi ích và nhược điểm của tính điểm

          Mô hình điểm z cơ bản có sẵn công khai. Nó sử dụng năm biến để phân biệt những người đi vay.


  • Tỷ số vốn hoạt động/ tổng tài sản

  • Tỷ số thu nhập giữ lại/ tổng tài sản

  • Tỷ số EBIT/ tổng tài sản (EBIT là thu nhập trước thuế và lãi)

  • Tỷ số giá trị thị trường của cổ phân/ giá trị sổ sách của nợ

  • Tỷ số doanh thu/tổng tài sản
          Hàm biệt thức là hàm tuyến tính. Tất cả các tỷ số có hệ số thống kê trong hàm:

Z = F(Xì,X2,Xĩ,Xa,X5)

         Giá trị của điểm z phản ánh xác suất sẽ vỡ nợ. Điểm cao nghĩa là xác suất thấp và ngược lại. Việc thực hiện đòi hỏi phải xác định một phạm vi các giá trị của z để đưa ra quyết định. Sử dụng mô hình đòi hỏi những giá trị ngắt sao cho:

Lợi ích và nhược điểm của tính điểm

  • Dưới một cận dưới, xác suất phá sản của công ty là cao

  • Trên một cận trên, xác suất phá sản thấp

  • Giữa cận trên và cận dưới, ta không biết rõ vì mô hình không phân biệt các công ty trong nhóm này. Khu vực “xám” là uy tín tín dụng trung bình.
        Những giá trị ngắt này dùng để phân loại người đi vay thành “tốt” hoặc “không tốt” hoặc ở giữa. Lợi ích của tính điểm là đẩy nhanh quá trình quyết định tín dụng và xếp hạng.

        Tuy nhiên cũng có những nhược điểm:
  • Một số tính chất quan trọng, ngoài các tỷ số, có thể có liên quan nhưng không được  tính đến trong hàm biệt thức. Ví dụ, chất lượng quản lý của các công ty nhỏ là rất quan trọng.

  • Không có nền tảng khái niệm của tính điểm, trừ hiệu ứng của các biến mang tính trực giác. Đây không phải là một nhược điểm miễn là ta chỉ quan tâm đến kết quà cuối cùng, không phải nền tảng khái niệm của quá trình khớp.
       Tính điểm được dùng chủ yếu cho số lượng lớn các đơn vị rất nhỏ. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ được định nghĩa theo Basel 2 là những danh mục đầu tư “sạn”, với giới hạn kích thước những khoản vay riêng lẻ, cả theo đơn vị tiền tệ và tính theo phân trăm của kích cỡ danh mục đầu tư.

        Tính điểm được sử dụng rộng rãi khi cho vay tiêu dùng. Tính điểm cho phép tự động hóa quá trình tín dụng vì không thật sự cần tìm hiểu hồ sơ của các cá nhân một cách chi tiết. Có rất nhiều dữ liệu thua lỗ danh mục đầu tư đáng tin cậy vì có số lượng lớn các cá nhân. Các tiêu chuẩn quan trọng bao gồm doanh thu tiềm năng, giá trị gia tăng cho ngân hàng và rủi ro. Thu nhập đầu người phụ thuộc trong gia đình, thuê nhà hay sở hữu nhà, tình trạng hôn nhân và nghề nghiệp là ví dụ về các “thuộc tính” để đánh giá uy tín tín dụng. Thông tin về những thẻ tín dụng khác và những khoản vay với các tô chức khác nêu có sẽ cung cấp thông tin về nguy cơ với những đối thủ cạnh tranh khác và mức độ nợ. SỐ năm ở cùng một địa chỉ và số năm có cùng một công việc đưa ra thông tin về tính linh hoạt và độ dài của dịch vụ tài chính ngân hàng cung cấp.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản trị rủi ro

Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Điều chú ý khi sử dụng tần suất vỡ nợ ứng với xếp hạng bên ngoài

        Khi sử dụng tần suất vỡ nợ ứng với xếp hạng bên ngoài cho xếp hạng nội bộ, ta đã giả định các phương pháp xếp hạng phải tương đương nhau, tức là xếp hạng nội bộ tương tự như xếp hạng bên ngoài cho những trái phiếu cao cấp không có đảm bảo. Những doanh nghiệp không được niêm yết và xếp hạng nên được chỉ định một xếp hạng nhất quán với những xếp hạng bên ngoài.

        Trong thực tế có những thiên lệch bên trong xếp hạng nội bộ so với xếp hạng bên ngoài. Ví dụ, các nhà phân tích có thể ấn định xếp hạng nội bộ cao hơn xếp hạng bên ngoài, với một vài bậc xếp hạng. Những sai lệch như vậy nên được chỉnh sửa. Nếu không, ấn định tần suất vỡ nợ từ xếp hạng ngoài vào xếp hạng nội bộ sẽ không thống nhất. Quá trình này đòi hỏi khớp xếp hạng nội bộ với xếp hạng ngoài, và điều chỉnh sự thiên lệch đó, trước khi ứng xếp hạng nội bộ với tần suất vỡ nợ.

Điều chú ý khi sử dụng tần suất vỡ nợ ứng với xếp hạng bên ngoài

          Cuối cùng, không phải bất kỳ xếp hạng ngoài nào cũng ứng với một uy tín tín dụng của doanh nghiệp, ngân hàng và các tổ chức tài chính. Phần lớn những số liệu thống kê hiện tại về vỡ nợ là của với các doanh nghiệp được xếp hạng. Nếu coi ngân hàng với cùng xếp hạng của doanh nghiệp có xác suất vỡ nợ giống nhau là không đúng với dữ liệu lịch sử. Điều tương tự cũng xảy ra khi so sánh các thành phố với doanh nghiệp. Dữ liệu vỡ nợ cho thành phố rất hiếm và tần suất vỡ nợ lịch sử trùng nhau sẽ có những khoảng tin cậy lớn. Các sự kiện vỡ nợ thường xảy ra với các doanh nghiệp hơn những tổ chức khác, và vì đây là nguồn chính của tần suất vỡ nợ, chúng thường được dùng cho tất cả các tổ chức.

         Lập luận thông thường để lý luận rằng một xếp hạng giống nhau cho những loại hình đối tượng khác nhau có nghĩa là rủi ro tín dụng như nhau là: những đánh giá chuyên gia của những nhà phân tích tín dụng đưa ra những xếp hạng tương đương nhau về uy tín tín dụng hay xác suất vỡ nợ. Ví dụ,, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có rủi ro cao hơn các tập đoàn lớn, và trung bình có xếp hạng tín dụng thấp hơn. Một giải pháp tốt hơn giả định xếp hạng bằng nhau có nghĩa là rủi ro bằng nhau là chuyển sang xác suất vỡ nợ trực tiếp thay vì sử dụng xếp hạng làm bước trung gian.

         Có thể dễ dàng thấy rằng xác suất vỡ nợ trong một bậc xếp hạng ngoài trùng lặp với những bậc khác. Điều này xuất phát từ phân phối vỡ nợ của mỗi bậc xếp hạng. Tỷ lệ vỡ nợ tổng hợp là một con số bình quân. Phân tích của các trùng lặp đó sử dụng các mô hình xác suất võ nợ, tính ra xác suất vỡ nợ vào một thời điểm, xuất phát từ giá cổ phần như được giải thích trong mô hình cấu trúc của vỡ nợ. Mô hình thưởng gặp nhất là KMV Credit Monitor của Moody’s và các nguyên lý được giải thích. Đầu ra của mô hình được gọi là EDF©, viết tắt của “tần suất vỡ nợ dự kiên”, vì những xác suất vỡ nợ đó được tính từ giá cổ phiếu, do đó nó mang tính tiên đoán. Khi sử dụng những xác suất vỡ nợ riêng lẻ như vậy, ta có thể thấy phân phối của EDF© trong các bậc xếp hạng trùng lặp rất nhiều, đặc biệt giữa những bậc liền kề nhau.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý danh mục đầu tư

Nguyên lý của tính điểm

        Nguyên lý của tính điểm là sử dụng một thước đo để tách tín dụng “tốt” và “xấu” thành những nhóm riêng biệt, sử dụng những thuộc tính quan sát được của người đi vay. Với các công ty, kỹ thuật này sử dụng các thuộc tính quan sát được ví dụ như các tỷ số tài chính. Những biến này bao gồm tính lợi nhuận, đòn bẩy, kích cỡ v.v. Với các cá nhân, thu nhập, tuổi tác và hoạt động nghề nghiệp có liên quan tới uy tín tín dụng của họ.

         Kỹ thuật này tạo ra một kết hợp tuyên tính của tất cả các biến để tính ra một hàm biệt thức. Giá trị hàm biệt thức là điểm. Các hàm cực đại hóa khả năng phân tách giữa người vỡ nợ và không vỡ nợ. Với mỗi cá nhân, giá trị bằng số của điểm xuất phát từ những thuộc tính quan sát được. Điểm càng cao thì chất lượng tín dụng càng tốt. Các điểm cho phép phân biệt người vỡ nợ với phân còn lại và dùng để xếp hạng tất cả các tổ chức tùy theo mức độ rủi ro tín dụng của họ.

Nguyên lý của tính điểm

         Một trong số các kết quả của quy trình là hệ số của hàm phân loại và các xác suất hậu nghiệm thuộc về một nhóm nhất định. Xác suất hậu nghiệm là những xác suất vỡ nợ điều kiện phụ thuộc vào điểm. Hãy giả sử điểm cao có liên quan tới uy tín tín dụng thấp. Khi các thuộc tính công ty tạo ra một điểm cao, xác suất hậu nghiệm cao hơn và ngược lại.

        Tính điểm không dùng tới một nền tảng khái niệm, ví dụ như KMV Credit Monitor, sử dụng mô hình Merton. Nó chỉ khớp một hàm phân biệt tốt nhất giữa những người rủi ro cao với những người rủi ro thấp, Đường khớp này có thể cẩn được định chuẩn nhiều lần đe phù hợp với điều kiện thay đổi, mặc dù các thuộc tính cũng có thể phản ánh điều kiện thay đổi.

        Do đó, tính điểm có khả năng phân biệt các công ty tùy theo uy tín tín dụng của họ và có thể dùng để dự đoán vỡ nợ và xếp hạng. Với các công ty, các mô hình tính điểm dựa trên một số lượng các chỉ báo, ví dụ như các tỷ sốkế toán, đã khá thành công. Có nhiều nghiên cứu cổ điểngiải thích hệ thông tính điểm và đưa ra những kết quả bằng số. Một điểm nổi tiếng liên tục được cập nhật là mô hình điểm z của Altman cho các doanh nghiệp (Altman 1977). Đây là một mô hình nhiều biến dựa trên giá trị của những tỷ số lựa chọn và những phép đo hạng mục. Các mô hình điểm z đã được áp dụng cho nhiều tô chức, từ những công ty vừa và nhỏ, sản xuất và không sản xuất, và cả các công ty trong các thị trường mới nổi.


Ứng các xếp hạng với sác xuất vỡ nợ

        Phương pháp vốn dựa trên xếp hạng nội bộ của Hiệp ước Basel 2 khiến cho xếp hạng nội bộ có một giá trị quan trọng. Theo Basel 2, cả xếp hạng nội bộ và điểm sẽ khớp với một thang xác suất vỡ nợ. Việc ứng khớp này có nghĩa là tương quan giữa xếp hạng và xác suất vỡ nợ bằng 1, hay xác suất vỡ nợ trên thang điểm là hàm đơn điệu của xếp hạng. Nhìn chung, khi không dùng điểm, xếp hạng phải một phân dựa trên đánh giá chuyên gia và danh mục đầu tư tương ứng thưởng là những danh mục đầu tư ít vỡ nợ. Do đó, thống kê nội bộ không thể dùng để tính ra xác suất vỡ nợ từ xếp hạng nội bộ.

Ứng các xếp hạng với sác xuất vỡ nợ

        Cách thức đơn giản nhất là ứng xếp hạng nội bộ với xếp hạng bên ngoài và sử dụng sự tương ứng giữa xếp hạng bên ngoài với xác suất vỡ nợ để tìm ra mối liên hệ giữa xếp hạng nội bộ và xác suất vỡ nợ. Điều này nghe có vẻ đơn giản, nhưng trong thực tế có nhiều khó khăn. Các phương pháp phải giống nhau ở một mức tối thiểu để đảm bảo xếp hạng nội bộ nhất quán với xếp hạng bên ngoài. Những chênh lệch được làm rõ bằng cách lên bảng chéo giữa xếp hạng nội bộ và xếp hạng bên ngoài và đảm bảo những khác biệt thời gian giữa chúng không quá xa nhau. Thông thường, sẽ có sự tập trung trên đường chéo, những số liệu ngoại lệ phải được kiểm tra.

      Xem xét những xếp hạng bên ngoài trước, đồ thị tần xuất vỡ nợ hàng năm theo bậc xếp hạng không tăng đơn diệu, ít nhất khi dùng thang xếp hạng với 20-30 bậc. Xếp hạng không khớp xếp hạng tần suất vỡ nợ, ngay cả khi lấy bình quân dài hạn của các tần suất vỡ nợ hàng năm. Làm “mượt” đồ thị là một phương pháp cần thiết.

       Thứ hai, tần suất vỡ nợ lịch sử từ các các cơ quan không tiêu biểu cho danh mục đầu tư của các ngân hàng. Có khoảng 5000 doanh nghiệp được niêm yết và xếp hạng. Coi danh mục đầu tư của những tập đoàn lớn là tiêu biểu cho danh mục đầu tư của ngân hàng là điều sai lầm trừ “danh mục đầu tư ít vỡ nợ” của các ngân hàng đầu tư làm việc với các tập đoàn lớn. Hơn nữa, những doanh nghiệp kích cỡ nhỏ hơn nhìn chung có xác suất vỡ nợ cao hơn những doanh nghiệp rất lớn.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: danh muc dau tu

Xếp hạng phán xét so với mô hình xếp hạng

      Hai thành phần chính là đánh giá định tính và tiêu chuẩn tài chính. Một đặc điểm chính của lưới xếp hạng là các tiêu chuẩn và trọng số của chúng thay đổi tùy theo ngành công nghiệp và loại đối tác, ví dụ như doanh nghiệp hay tổ chức tài chính. Một số tiêu chí có thể quan trọng và chi phối xếp hạng, độc lập với những tiêu chí khác.

     Ví dụ, hỗ trợ pháp lý của một đơn vị quốc gia là đủ để ấn định xếp hạng quốc gia thay vì xếp hạng độc lập của người đi vay trưc tiếp. Trong các trường hợp khác, các tiêu chí có thế bù trừ trong lưới xếp hạng, có nghĩa là các khoản thuận lợi và bất lợi bù trừ cho nhau. Có một sự khác biệt lớn giữa hệ thống tính điểm, liên hệ đánh giá rủi ro với số lượng biến và cho phép các hiệu ứng bù trừ giữa các tiêu chí của mô hình tính điểm.

Xếp hạng phán xét so với mô hình xếp hạng

     Theo quan điểm thống kê, “các mô hình xếp hạng” có thể khớp với dữ liệu khi cố gắng giải thích xếp hạng bởi nhiều biến quan sát được. Những kết quả thực nghiệm cho thấy xếp hạng bên ngoài tất nhạy với tính lợi nhuận hoạt động, được đo lường bằng ROA (tỷ số thu nhập trên tài sản), kích thước và đòn bẩy tài chính (tỷ số nợ với cổ phân) và tỷ số giá thị trường với sổ sách, phản ánh độ hiệu qủa của thị trường vốn trong việc đánh giá sự mạnh yêu của công ty. Chú ý nhiều biến này tương quan với nhau, nghĩa là những công ty lợi nhuận cao thưởng có ít đòn bẩy.

     Nhìn chung, những mô hình xếp hạng như vậy, khiến cho xếp hạng giống như điểm, không phù hợp cho việc đánh giá xếp hạng khi cần một yếu tố phán xét để cải thiện xêp hạng tín dụng.

     Các tiêu chuẩn cho đánh giá rủi ro tín dụng được gia trọng bằng những nhà phân tích tín dụng. Các tiêu chuẩn và trọng số đều thay đổi tùy theo ngành công nghiệp. Những lưới xếp hạng đơn gián hóa cho các doanh nghiệp và ngân hàng được đưa ra làm ví dụ.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: danh mục đầu tư

Các thành phần xếp hạng của hệ thống tín dụng nội bộ

          Các lưới xếp hạng tín dụng nội bộ thường có một vài thành phân được kết hợp với nhau trong xếp hạng cuối cùng được ấn định cho một đối tác.

          Xếp hạng bên trong đánh giá rủi ro của người đi vay như một thực thể riêng lẻ. Nhưng xếp hạng tín dụng nên mở rộng cho tất cả các đơn vị có liên hệ với người đi vay trực tiếp hay khoản vay. Chú ý hỗ trợ không phải là một đảm bảo pháp lý nhưng xuất phát từ một cam kết ngầm có thể có hiệu lực hoặc không, của tập đoàn để hỗ trợ một công ty con. Vì tập đoàn thưởng lớn hơn các công ty con nhiều, bỏ qua hỗ trợ tiềm năng của tập đoàn là một cách làm sai lầm. Để đánh giá hỗ trợ, cần phải đánh giá uy tín tín dụng của người đi vay, của đơn vị hỗ trợ và “sức mạnh” của sự hỗ trợ. Kết hợp đánh giá hỗ trợ với xếp hạng bên trong sẽ tính ra xếp hạng chung của người đi vay.

Các thành phần xếp hạng của hệ thống tín dụng nội bộ

           Xếp hạng bên trong của ngân hàng bao gồm:


  • Xếp hạng bên trong của người đi vay

  • Sự tổn tại của một tổ chức hỗ trợ

  • Xếp hạng tổ chức hỗ trọ

  • Đánh giá mức độ hỗ trợ của công ty mẹ nếu có

         Xếp hạng tổng quát của người đi vay kết hợp tất cả ba yếu tố trên. Xếp hạng tín dụng còn mở rộng cho những người đảm bảo hay người phát hành cổ phiếu dùng làm thế chấp. Nhưng những xếp hạng đó không thay đổi uy tín tín dụng của người đi vay trực tiếp khi chúng tùy vào giao dịch cụ thể và ảnh hưởng tới tỷ lệ hổi phục của khoản nợ.

LƯỚI XẾP HẠNG

      Các tiêu chuẩn xếp hạng người phát hành bao gồm đánh giá định tính về uy tín tín dụng của đối tác và các biến định lượng, trong đó phân nhiều là các biến tài chính. Xếp hạng một doanh nghiệp luôn bao gồm một thành phần phán xét vì có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới uy tín tín dụng của đối tác. Phân tiếp sau đây có thể không toàn diện, nhưng sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về bản chất của các tiêu chuẩn xếp hạng.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: vo no

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Xếp hạng tín dụng nội bộ và các quy tắc kinh doanh

           Các hệ thống xếp hạng đòi hỏi những quy tắc kinh doanh để thực thi. Một ví dụ thông thưởng và đơn giản là quy tắc liên hệ rủi ro quốc gia với doanh nghiệp hay ngân hàng đi vay. Khi rủi ro quốc gia trở thành rủi ro chuyển khoản, thu hồi lại tiền mặt từ người đi vay sẽ không còn khả thi nữa. Đây là lý do xếp hạng của một người đi vay không thể vượt xếp hạng của quốc gia đó. Nếu rủi ro quốc gia trở thành sự thật, người cho vay sẽ phải đối diện với một vụ vỡ nợ do rủi ro chuyển khoản, mặc dù xếp hạng tín dụng của người đi vay không thay đổi.

Xếp hạng tín dụng nội bộ và các quy tắc kinh doanh

          Những quy tắc khác cũng áp dụng với sự chuyển giao rủi ro từ một thành viên của hệ thống cấp bậc tới người đứng đầu của hệ thống hay tới một đảm bảo bên thứ ba. Nguy cơ sau đó sẽ được chuyển giao nội bộ đến đơn vị mà ngân hàng cho là thích hợp nhất để phân bố lượng rủi ro đó.

           Một quy tắc thứ ba liên hệ hiệu ứng lấy lan giữa các đối tác. Ví dụ, vỡ nợ của một tập đoàn có thể gây ra vỡ nợ của tất cả hay một số công ty con, kể cả khi chúng không thật sự vỡ nợ. Lấy lan không dựa trên pháp lý và tuân theo những quy tắc nội bộ. Ngân hàng có thể nhận định rằng xác suất vỡ nợ trong một hệ thống cấp bậc thật ra phụ thuộc vào các sự kiện vỡ nợ trong hệ thống đó và gây ra sự lấy lan cho người đi vay trực tiếp. Các hiệu ứng lấy lan pháp lý tồn tại khi khoản nợ của người đi vay có những điều khoản dẫn tới vỡ nợ khi những khoản nợ khác trong tập đoàn của đối tác vỡ nợ.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: vỡ nợ

Xếp hạng tín dụng và liên hệ giữa các đối tác

        Xếp hạng nội bộ dành cho đối tác hay người phát hành, không phải xếp hạng khoản vay. Trong nhiều trường hợp, xếp hạng có thể áp dụng với các đôi tác khác ngoài người đi vay trực tiếp. Một trường hợp thông thường là đảm bảo của bên thứ ba hay thế chấp, vì có thể thay thế xếp hạng của người đi vay trực tiếp bằng xếp hạng thế chấp hay người đảm bảo. Điều này có nghĩa là phải mở rộng xếp hạng ra ngoài người đi vay trực tiếp sang những người đảm bảo và người phát hành các cổ phiếu dùng làm thế chấp.

         Mối liên hệ pháp lý giữa người đi vay trực tiếp và một tổ chức khác ví dụ như quan hệ công ty con/công ty góp cổ phân phải được ghi chép lại và đánh giá rủi ro. Bất kể khỉ nào người đi vay trực tiếp phụ thuộc vào một tổ chức khác ví dụ như một tập đoàn, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào hỗ trợ tiềm năng của tập đoàn và sẽ gây ra nguy cơ gián tiếp trong rủi ro của tập đoàn. Nếu không xem xét cả hỗ trợ, một doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thuộc về một tập đoàn sẽ được đánh giá giống như một SME độc lập không thuộc về bất kỳ tập đoàn nào.

Xếp hạng tín dụng và liên hệ giữa các đối tác

         Một phân quan trọng của phép đo rủi ro tín dụng và xếp hạng nội bộ là cơ sở dữ liệu nội bộ của các đối tác. Co sở dữ liệu phải ghi chép lại những liên hệ này. Quản lý hệ thống cấp bậc của các đối tác là điều quan trọng, nếu không người cho vay sẽ không xác định được họ đang gặp rủi ro với ai. Các quy tắc chuyển giao rủi ro tín dụng định rõ khi nào nguy cơ với một người đi vay trực tiếp trở thành nguy cơ với lãnh đạo tập đoàn, vì thưởng người lãnh đạo tập đoàn sẽ có hỗ trợ lớn. Chuyên giao rủi ro tín dụng cũng áp dụng khi quy tắc thay thế được thực thi với giảm thiếu rủi ro tín dụng theo Basel 2. Khinào chuyển giao rủi ro tín dụng áp dụng, cả xếp hạng của người đi vay trực tiếp và của tổ chức rủi ro sẽ được chuyển giao phải được ghi chép.

         Theo dõi hệ thống cấp bậc của các đơn vị không phải là một công việc đơn giản. Các tập đoàn hay sát nhập và mua lại. Những liên hệ như vậy phải được theo dõi. Các hệ thống công nghệ thông tin hiện đại có riêng một mô-đun hoàn thiện để quản lý những hệ thống cấp bậc đó của các đơn vị và giúp những người phân tích hiểu rõ ngân hàng đang gặp rủi ro với ai.

      Một phần quan trọng khác của hệ thống là quản lý ký hiệu nhận dạng của đối tác. Tên là không đủ. Ví dụ, Continental có thể là một hãng hàng không hoặc một nhà sản xuất các sản phẩm ô tô. Tương tự, IBM và International Business Machines là cùng một thực thể. Tên là không đủ để định danh một đối tác cụ thể. Các tên thưởng được sử dụng bao gồm các mã CUSIP và ISIN và băng điện báo. Hệ thông quản lý đối tác phải bao gồm một sơ đồ được theo dõi thường trực ứng những tên nhận dạng nôi bộ của đốitác của ngân hàng với những tên nhận dạng bên ngoài.

        Nhiều nguy cơ trực tiếp thực ra là những nguy cơ gián tiếp với nhiều người đi vay. Nguy cơ với chứng khoán hóa hay quỹ là những nguy cơ cho người phát hành tài sản trong danh mục đầu tư. Một chính sách “nhìn xuyên qua” xác định nguy cơ gián tiếp cho người đi vay đặt ra những vấn đề, vì thông tin không được tiết lộ hoặc quá phức tạp để quản lý.


Đánh giá rủi ro qua thang xếp hạng nội bộ

     Xếp hạng bên ngoài từ các cơ quan chỉ tồn tại cho những trái phiếu của các công ty niêm yết lớn. Khi xếp hạng nội bộ dựa vào xếp hạng bên ngoài để đánh giá xác suất vỡ nợ, sẽ có một sự sai lệch trong thống kê vỡ nợ vì mẫu của các đơn vị được các cơ quan xếp hạng không đại diện cho danh mục đầu tư của ngân hàng. Các ngân hàng hoạt động trong thị trường kinh doanh vừa và nhỏ phải đối diện với rủi ro tín dụng hoàn toàn khác với những tập đoàn lớn hay ngân hàng chiếm phần lớn các xếp hạng của các cơ quan. Các ngân hàng cần dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ của riêng họ để đánh giá rủi ro của những nguy cơ với những đối tác này.

Đánh giá rủi ro qua thang xếp hạng nội bộ

     Các thang xếp hạng nội bộ có một số lượng cấp bậc khác nhau, thường từ 10 tới 30, giống như thang của các cơ quan xếp hạng, đơn giản hóa hoặc chi tiết. Thang xếp hạng đơn giản của Moody sử dụng ba cấp độ với các xếp hạng hạng mục đầu tư và ba cấp độ cho hạng mục “đầu cơ”. Những thang chi tiết sẽ bao gồm khoảng 20 cấp, không bao gồm các trạng thái gần vỡ nợ, như với Moody’s, s & p và Fitch. Vấn đề các xếp hạng với tần suất vỡ nợ minh họa những khác biệt của các xác suất vỡ nợ được khớp có thể lớn thế nào, đặc biệt trong nhóm đầu cơ. Điều này được xử lý trong phân cuối cùng.

     Phụ lục sẽ miêu tả một thang xếp hạng tiêu biểu của các cơ quan xếp hạng. Nhìn chung, các tính chất của những cấp độ khác nhau là rộng và không chỉ rõ xếp hạng được ấn định ra sao. Có nhiều tiêu chuẩn ảnh hưởng tói uy tín tín dụng của một người đi vay, tùy loại hình đơn vị đi vay và trọng số thay đổi tùy theo bản chất của người đi vay.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: tài sản thế chấp

Triết lý xếp hạng tín dụng

Triết lý đằng sau xếp hạng tín dụng của các đơn vị xếp hạng bên ngoài và nhà làm luật là khác nhau.

      Các cơ quan xếp hạng đánh giá trái phiếu nợ thay vì người phát hành vì người cho vay và nhà đầu tư quan tâm đến rủi ro của khoản nợ họ đang mua hoặc nắm giữ. Xép hạng người phát hành mô tả uy tín tín dụng của người phát hành. Người phát hành thưởng có nhiều loại trái phiếu nợ, không phải tất cả đều có rủi ro như nhau.

      Các trái phiếu nợ khác nhau về mức độ cao cấp hay đảm bảo. Nợ cấp thấp có thể vỡ nợ trước nợ cao cấp, và nợ có đảm bảo có rủi ro thấp hơn, nên xếp hạng của chúng sẽ khác với uy tín tín dụng của người phát hành, xếp hạng cao câp không đảm bảo rất giống với xêp hạng người phát hành vì chúng được ưu tiên thanh toán đầu tiên khi vỡ nợ.

Triết lý xếp hạng tín dụng

      Triết lý của nhà làm luật lại khác vì xếp hạng tín dụng nội bộ dùng để đánh giá xác suất võ nợ của một người phát hành, thông qua một xếp hạng người phát hành. Mức độ nghiêm trọng của thua lỗ trong trường hợp võ nợ tùy vào giao dịch cụ thể vì nó phụ thuộc vào thế châp hoặc đảm bảo. Trường hợp của cho vay chuyên dụng, như được định nghĩa trong Basel 2, là một trường hợp ngoại lệ khi rủi ro tín dụng gần như hoàn toàn phụ thuộc vào giao dịch thay vì đối tác.

      Trong trường hợp câp vốn dự án, rủi ro tín dụng được giảm thiểu nhờ dòng tiền dự kiến và một chuỗi các điều khoản áp đặt giới hạn lên những người tham gia vào dự án. Khi rủi ro tùy vào giao dịch là rủi ro chủ đạo, xếp hạng sẽ miêu tả những thể thức cho vay thay vì người phát hành. Một số mẫu các tiêu chuẩn rủi ro tín dụng trong Hiệp Ước Basel 2 được trình bày trong Phụ Lục 6 tham khảo làm hướng dẫn cho các ngân hàng để xếp hạng những giao dịch đó.

       Theo cả hai triết lý, xêp hạng tín dụng nên dựa vào những tính chất cơ bản dài hạn của một công ty và không thay đổi thưởng xuyên trong những điều kiện thông thưởng. Cả ngân hàng và các cơ quan đều phải thưởng xuyên kiểm tra xếp hạng của họ định kỳ hoặc theo dõi những sự kiện bất ngờ ảnh hưởng uy tín tín dụng của người phát hành. Một ví dụ là sát nhập hoặc mua lại. Hai sự kiện này thay đổi đáng kể hổ sơ rủi ro của một người đi vay doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng từ các cơ quan không thay đổi thưởng xuyên như mong muốn. Làn sóng tụt hạng trong cuộc khủng hoảng năm 2007 và 2008 cho thấy cách nhìn này có phân đúng đắn.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: tài sản có của ngân hàng

Hệ thống xếp hạng rủi ro tín dụng

         Xếp hạng tín dụng là sự đánh giá uy tín tín dụng của người đi vay và người đảm bảo. Xếp hạng tín dụng thưởng áp dụng cho những doanh nghiệp lớn, ngân hàng, công ty bảo hiểm, quốc gia hay các tổ chức công. Trong dịch vụ ngân hàng bán lẻ, có một lượng lớn dữ liệu thống kê cho phép đánh giá rủi ro từ các mô hình thốhg kê hoặc’điểm, sẽ được nói tới trong chưong tiếp theo. Một sự khác biệt lớn là xếp hạng bao gồm một yêu tố phán đoán trong khi “điểm” xuất phát từ đường khớp thống kê giữa các sự kiện vỡ nợ và các biến quan sát được.

Hệ thống xếp hạng rủi ro tín dụng

        Đánh giá rủi ro tín dụng xếp hạng uy tín tín dụng của những trái phiếu nợ sử dụng những thứ tự xếp hạng được biểu thị bằng chữ cái cho các công ty. xếp hạng là các số thứ tự thay vì giá tri tuyệt đôi của mức độ rủi ro, tương phản với xác suất vỡ nợ định lượng hóa khả năng vỡ nợ trong một khoảng thời gian, xếp hạng nội bộ là đánh giá tín dụng các ngân hàng ấn định cho người đi vay. Không giống như những xếp hạng của các cơ quan, sử dụng những thang công khai, xếp hạng nội bộ sử dụng những thang độc quyền của mỗi ngân hàng.

         Xếp hạng tín dụng dùng làm cơ sở cho cách tiếp cận “dựa trên xếp hạng nội bộ” của Hiệp Ước mới và có vai trò quan trọng để phân tách rủi ro tin dụng của các khoản vay. Chú ý xếp hạng bên ngoài ứng với các trái phiếu nợ, không phải đơn vị phát hành. Xếp hạng của nợ cao cấp không có đảm bảo khá giống với xếp hạng người phát hành vì khoản nợ chỉ vỡ nợ khi người phát hành bị vỡ nợ. xếp hạng nội bộ Basel 2 nên là xếp hạng người phát hành.

       Những phương thức có thể thay đổi nhiều, từ những mô hình thống kê cho tới đánh giá của chuyên gia, và giải pháp trung gian kết hợp cần phán đoán và mô hình. Những hệ thống xếp hạng sử dụng nhiều tiêu chuẩn từ những nhân tố định tính như độ mạnh yếu của công ty hay tài chính của doanh nghiệp đi vay. Các cơ quan xếp hạng tín dụng đưa ra những định nghĩa rộng, mặc dù phương pháp độc quyền chi tiết và có cấu trúc hơn nhiều. Chúng tôi đưa ra trong phần phụ thuộc một mẫu của những định nghĩa rộng đó của các cấp bậc tín dụng bằng chữ.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản trị ngân hàng

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

Nghiên cứu về thống kê vỡ nợ

       Phần lớn các thống kê dựa trên thống kê công khai của các cơ quan xếp hạng tín dụng. Tuy nhiên, có một số nghiên cứu có giá trị tuy chúng đã cũ hơn. Các nghiên cứu đó bao gồm bài phân tích của Asarnow về vỡ nợ cho vay trong 24 năm, bài của Carty và Lieberman hay các tài liệu của Altman. Trong chương này ta chủ yêu dựa vào dữ liệu của các cơ quan xếp hạng có sẵn công khai và tương đối gần đây.

Nghiên cứu về thống kê vỡ nợ

     Xếp hạng bên ngoài ứng với tỷ lệ vỡ nợ hàng năm và tích lũy. Dữ liệu lịch sử báo cáo thông kê rủi ro như là một tần suất, sốlượng hoặc tỷ lệ của một mẫu tham chiếu. Các tỷ lệ này là số học hoặc gia trọng, đặc biệt với tỷ lệ vỡ nợ, gia trọng bằng kích cỡ của trái phiếu vỡ nợ. Ta sử dụng tỷ lệ dựa trên số lượng công ty thay vì tỷ lệ gia trọng bằng giá trị. Khi tính toán tỷ lệ vỡ nợ, cẩn phải xem xét số lượng công ty sống sót vào đầu giai đoạn. Quá trình bao gồm các bước sau:
  • Tổng hợp dữ liệu vỡ nợ cho một số lượng nhất định các công ty được xếp hạng vào lúc bắt đầu giai đoạn và vẫn được xếp hạng vào cuối giai đoạn.

  • Chia nhỏ nhóm thành các tiểu danh mục đầu tư theo bậc uy tín.

  • Tính toán tỷ lệ vỡ nợ là tỷ số giữa số các vụ vỡ nợ so với tổng số các công ty sông sót vào đầu giai đoạn.
      Trong thực tế, khi bắt đầu với dữ liệu từ các cơ quan xếp hạng bên ngoài, dữ liệu sẽ có những công ty không còn tồn tại trong cơ sở dữ liệu vào cuối giai đoạn. Nêu ta lựa chọn một năm nhất định bắt đầu vào thời điểm ấy, số các công ty được xếp hạng tồn tại vào ngày đầu tiên sẽ khác số công ty vào ngày cuối do những xếp hạng biến mất hoặc các vụ sát nhập. Thông tin này được tách biệt để xác định tần suất vợ nợ lịch sử và thay đổi xếp hạng tín dụng. Các bảng của các cơ quan xếp hạng cung cấp xác suất vỡ nợ tích lũy cho một nhóm được định ra vào một ngày bắt đầu cho tới bất kỳ ngày tương lai nào.

      Tương quan trong nhiều năm cũng sử dụng nhóm các công ty được định nghĩa ở những thời điểm khác nhau và bình quân dữ liệu theo bậc xếp hạng cho các nhóm.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tín dụng trong ngân hàng

Tìm hiêu thống kê phục hồi

    Thống kê phục hồi chủ yếu dựa vào giá của các trái phiếu và khoản vay đã bị vỡ nợ, tính bằng tỷ số giữa giá trị sau khi vỡ nợ với mệnh giá. Tỷ lệ phục hồi thay đổi tùy vào mức độ cao cấp. Độ lệch từ giá trị trung bình khá rộng, do đó phạm vi thực của các loại nợ có thể trùng nhau. Một điều được Moody’s chi ra là tỷ lệ hồi phục có vẻ như có tương quan với điều kiện kinh tế. Do đó, khi điều kiện kinh tế xấu đi, xác suất hồi phục cũng suy giảm. Phần lớn các mô hình sử dụng phục hồi là một đầu vào không tính đến những tương quan như vậy. Bình phương của hồi quy của tỷ lệ phục hồi so với tỷ lệ vỡ nợ là 64%, với hệ số âm cho tỷ lệ vỡ nợ (Moody’s, 2007).

Tìm hiêu thống kê phục hồi

Phục hồi là một yếu tố quyết định thua lỗ khi vỡ nợ. Do đó, Hiệp ước mới tập trung vào xây dựng dữ liệu hồi phục. Dữ liệu hồi phục của mức độ cao cấp, loại sản phẩm và bản chất của đảm bảo sẽ giúp phân biệt rõ hơn tỷ lệ phục hồi trung bình cho những bậc xếp hạng khác nhau. Chú ý những hạng mục tài sản ví dụ như tài chính chuyên dụng, dữ liệu phục hồi hiếm hơn với các doanh nghiệp. Những chiến dịch thu thập dữ liệu giữa các ngân hàng vẫn đang tiếp diễn.

Với thời gian, rủi ro cải thiện hoặc xấu đi. Những sự dịch chuyển này được phản ánh bằng tần suất chuyển đổi giữa các nhóm rủi ro. Trong một khoảng thời gian nhất định, tỷ lệ chuyển đổi giữa các nhóm xếp hạng là tần suất chuyển đổi chia cho số lượng công ty ban đầu trong mỗi nhóm rủi ro.

Vì tần suất chuyển đổi cao hơn giữa những nhóm xếp hạng cạnh nhau, tỷ lệ cao nhất gần đường chéo của ma trận. Mỗi cột và hạng là một hạng mục xếp hạng. Cột trước cột cuối cùng là tần suất vỡ nợ của mỗi nhóm xếp hạng. Cột cuối cùng là tỷ lệ những xếp hạng bị rút lại vì công ty không còn tồn tại. Tổng tất cả các xác suất chuyển đổi cộng với phần trăm những xếp hạng bị rút lại là 1 vì mỗi hàng liệt kê tất cả những trạng thái cuối cùng có thể xảy ra. Ma trận chuyển đổi có những giới hạn sau:
  • Tất cả các tổng trong một hàng là 1 vì chúng nhóm tất cả những chuyển đổi có thể xảy ra với trạng thái vỡ nợ.

  • Tất cả các xác suất chuyển đổi là dương và thấp hơn 1
Chuyển đổi, thay vì bình quân dài hạn, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế hiện thời. Khi mô phỏng các tỷ lệ vỡ nợ, tất cả các tỷ lệ chuyển đổi phải dịch chuyển để đảm bảo tính nhất quán của ma trận. Mô hình như vậy tồn tại trong mô hình kinh tế lượng của danh mục đầu tư tín dụng.

Có thể ứng các xếp hạng với chênh lệch tín dụng trong thị trường. Do đó có thể ấn định những chênh lệch tín dụng khác nhau cho trạng thái tín dụng cuối cùng, và định giá một khoản vay hay một trái phiếu theo đó. Điều này cho phép tạo ra phân phối giá trị vào một thời điểm tương lai cho bất kỳ tài sản nào với hạng mục xếp hạng ban đầu đã biết. Đây là một cách thức thông thường để định giá rủi ro chuyển dịch trong các mô hình rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, chênh lệch tín dụng không chỉ phụ thuộc vào nhóm xếp hạng. Phân tích thống kê với chênh lệch tín dụng cho thấy chúng phụ thuộc chủ yếu vào nhóm xếp hạng, ngành công nghiệp, vùng địa lý với một hạng mục tài sản nhất định, ví dụ như doanh nghiệp.


Tỷ lệ vỡ nợ hàng năm và Tỷ lệ vỡ nợ tích lũy

Tỷ lệ vỡ nợ hàng năm là tỷ số giữa các công ty vỡ nợ so với các công ty sống sót vào đầu năm. Có các tỷ lệ vỡ nợ số học dựa trên số lượng người phát hành cổ phiếu.Những giá trị thực thay đổi hàng năm. Tỷ lệ vỡ nợ gần bằng 0 cho những công ty có xếp hạng tín dụng cao nhất. Tỷ lệ này là gân 21% một năm cho nhóm xếp hạng thấp nhất. Ba nhóm đầu tiên đại diện cho những đơn vị đi vay hạng mục đầu tư. Ba nhóm còn lại là hạng mục đầu cơ. Với những đơn vị đi vay hạng mục đầu tư, tỷ lệ vỡ nợ hàng năm thấp hơn 0,1%. Với những đơn vị đi vay hạng mục đầu cơ, tỷ lệ từ 0,2% tới 21% một năm. Vẽ biểu đổ những con số này, ta thấy tần suất vỡ nợ tăng gần giống như hàm mũ khi xếp hạng giảm. Tỷ lệ vỡ nợ năm thứ nhất được tính bình quân cho tất cả các năm được quan sát.

Tỷ lệ vỡ nợ hàng năm và Tỷ lệ vỡ nợ tích lũy

Xếp hạng ảnh hướng tới chi phí khi đi vay của ngân hàng và quyết định họ có được tham gia một số hoạt động hay không. Cải thiện xếp hạng của một ngân hàng là điều cực kỳ quan trọng. Lượng vốn bắt buộc để tăng một bậc xếp hạng cho những thứ hạng thấp lớn hơn nhiều so với thứ hạng cao. Vì phép tính vốn kinh tế sử dụng mức dở tin cậy đại diện cho rủi ro vỡ nợ của ngân hàng.

Tỷ lệ vỡ nợ tích lũy theo thời gian. Tỷ lệ vỡ nợ tích lũy cho cấp bậc đầu tư, tất cả các cấp bậc và cấp bậc đầu cơ, theo thứ tự đó, đồ thị cao nhất là của câp bậc đầu cơ. Tỷ lệ vỡ nợ tăng với thời gian. Khoảng thời gian càng dài, xác suất quan sát một vụ vỡ nợ càng tăng. Tỷ lệ vỡ nợ không tăng tỷ lệ thuận với độ dài khoảng thời gian. Với những bậc xếp hạng cao, tức là tỷ lệ vỡ nợ thấp, sự tăng đó cao hơn tỷ lệ thuận. Với những bậc xếp hạng thấp, sự tăng đó thấp hơn tỷ lệ thuận. Những người đi vay rủi ro cải thiện rủi ro của họ khi sống sót trong khoảng thời gian dài. Những người đi vay rủi ro thấp đối mặt với rủi ro cao hơn theo thời gian.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tài chính

Quá trình kiểm định

     Kiểm định là quá trình có mục tiêu đảm bảo tính nhất quán và tuân thú những nguyên tắc cơ bản của mô phỏng và quản lý rủi ro. Phương pháp kiểm định không dễ thiết kế đặc biệt là với mức độ đa dạng các công cụ dùng trong ngân hàng và sự phức tạp của các quy định về rủi ro. Cả ba đề tài của chương này để phục vụ mục đích kiểm định. Các mô hình cần phải được back test, đặt chuẩn so sánh và stress test. Tất cả các kỹ thuật dùng để đánh giá tính đáng tin cậy và nhất quán của các phép đo rủi ro.

     Những nguyên tắc khác cũng cần được thực thi để đảm bảo một quá trình kiểm định xác đáng. Tất cả các công cụ cần được ghi chép cẩn thận. Điều này có vẻ quá hiển nhiên nhưng thực tế thì không phải như vậy. Đơn vị kiểm định nên độc lập với kinh doanh và có quyền lực cần thiết để đưa ra những khuyến nghị mà tất cả các nghiệp vụ và nhóm nghiên cứu phải tuân theo. Họ nên định ra những phương pháp kiểm toán phù hợp, vì sự thận trọng không phải luôn được tuân theo. Họ nên có tiếp cận với các mô hình và có khả năng phát triển mô hình của riêng họ. Những mô hình đó có thể thu nhỏ hơn vì không cần thiết phải chính xác hoàn hảo, nhưng phải đảm bảo những khoảng độ lớn phải tương xứng với những gì dự đoán có thể xảy ra.

Quá trình kiểm định

      Cả ba kỹ thuật đều là những kỹ thuật kiểm định mà những người giám sát nội bộ hoặc bên ngoài cần dùng khi đối mặt với thách thức phải đảm bảo các mô hình nhất quán. Chúng nên được thực hiện bởi một đơn vị kiểm định độc lập. Nguyên tắc này không được thực thi rộng rãi như được khuyên nghị, có thể vì nó đòi hòi nguồn nhân lực chuyên môn trong tiền sảnh và đơn vị kiểm định. Các đơn vị kiểm định “ấn” cũng có nhược điểm giống như những nhà quản lý rủi ro “ẩn”. Lợi ích là họ có thế tiếp cận các chi tiết, dữ liệu, quy trình và công cụ. Nhưng nhược điểm là tính độc lập không còn được đảm bảo.

      Ta thường suy nghĩ nguyên tắc nhìn bằng “bốn mắt” nên được thực thi. Nguyên tắc “bốn mắt” nói về hai cách nhìn độc lập của cùng mô hình rủi ro, thước đo rủi ro hay nguy cơ. Nhìn chung, nguyên tắc “bốn mắt” áp dụng trong trận tuyến phòng ngự đầu tiên của các ngân hàng, khi các hệ thông văn phòng giữa và sau kiểm tra việc tiền sảnh xử lý các giao dịch. Nhưng áp dụng nguyên tắc “bốn mắt” giữa văn phòng tiền sảnh và đơn vị rủi ro trung ương không phổ biến trong thực tế. Hệ thống rủi ro trung ương tổn tại và cho phép tổ chức cách nhìn hai chiều đó. Hệ thống rủi ro trung ương như vậy đảm bảo tính nhất quán giữa những gì phòng rủi ro nhìn thấy và những gì các nghiệp vụ kinh doanh ghi chép và báo cáo.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghiệp vụ tín dụng ngân hàng

Những hiệu ứng gián tiếp và các các kịch bản factor-push

      Biều đồ “cơn lốc” và phân tích độ nhạy của độ biến động thua lỗ danh mục đầu tư khó khăn. Khủng hoảng lịch sử có thể giúp tìm ra những nhân tố cẩn được nhân mạnh đồng thời để có stress test toàn diện hơn. Những các kịch bản đó nên được biến đổi thành những thay đổi nhân tố thay đổi cùng nhau.     Tập hợp các nhân tố cần nhấn mạnh ;không còn phụ thuộc và tính phụ thuộc giữa các nhân tố. Thay vào đó, nó phụ thuộc và tính phụ thuộc giữa các các kịch bản tổng thể và tất cả các nhân tố bị ảnh hưởng bởi các các kịch bản đó. Sự biến đổi của các các kịch bản khủng hoảng toàn bộ đòi hỏi khớp các kịch bản với tất cả các nhân tố phụ thuộc vào các kịch bản. Sau đó, có thể áp dụng kỹ thuật factor-push cho tất cả các nhân tố liên quan tới kịch bản.

Những hiệu ứng gián tiếp và các các kịch bản factor-push

    Stress test không chỉ đơn giản như trong ví dụ này. Với phân tích “điều gì sẽ xảy ra nêu…”, có những hiệu ứng trực tiếp và gián tiếp. Lây ví dụ hạ bậc xêp hạng tín dụng. Tác động trực tiếp là xác suâ’t vỡ nợ tăng và vôn tín dụng yêu cầu cao hơn. Nhưng những tác động gián tiếp bao gồm lệnh gọi tăng thế châp, cản trở việc hợp tác với một số đối tác, hoặc thiếu tính thanh khoản do khả năng thanh toán bị suy giảm trong các stress test.

    Điều tương tự cũng xảy ra với VaR thị trường. Tụt hạng đánh giá tín dụng sẽ đòi hỏi tăng thế châp và giá trị thế chấp ảnh hưởng trực tiêp tới VaR. Stress test cap độ một rất đơn giản, nhưng tìm ra những hiệu ứng gián tiếp thì không hề dễ dàng hay thậm chí khả thi vì tìm ra tâ’t cả những hiệu ứng gián tiêp vượt ra ngoài các chi tiết của hệ thống rủi ro.

    Sử dụng những hiệu ứng trực tiêp câp độ một chưa đạt được tiêu chuẩn của stress test, Tim ra những hiệu ứng thông qua những biến chủ chô’t vẫn là một thách thức lớn. Cuộc khủng hoảng cho thây tìm ra những hiệu ứng gián tiếp sẽ giúp nhìn nhận những gì đã xảy ra tốt hon thay vì những kỹ thuật factor-push đơn giản. Một cách để thực hiện những stress test toàn diện là dựa trên các các kịch bản thay vì kỹ thuật factor-push. Các kịch bản sẽ kết họp những nhân tố thưởng hay liên kết với nhau trong những điều kiện



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quan tri rui ro

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Kỹ thuật factor push

Những tác động trực tiếp hay các kỹ thuật factor push


     Hãy xem xét một danh mục đầu tư tín dụng hay tiểu danh mục đầu tư bất kỳ ví dụ như tiểu danh mục đầu tư rùi ro thấp (phân khúc A) và một danh mục đầu tư rủi ro cao (phân khúc B). Ví dụ, ta có thể thay đổi nguy cơ từ 10D thành 110 (tăng 10%) và sau đó quay lại 100.       Ta có thể sau đó thay đổi một nhân tố khác, ví dụ tương quan vỡ nợ giữa những người đi vay tăng 10% và quay lại trường hợp cơ sở. Sau đó, ta có thể thay đổi một biến khác. Ta phải chú ý nhiều biến ví dụ như xác suất vỡ nợ hay tỷ lệ phối phục.

Kỹ thuật factor push

     Phân tích độ nhạy đòi hỏi tập trung vào một vài biến mục tiêu quan trọng, ví dụ như độ biến động thua lỗ danh mục đầu tư, Var và vôn. Thay đổi giá trị đầu vào thay đổi giá trị biến đầu ra. Vì cở nhiều nhân tố rủi ro phải xem xét, số lẩn thực hiện mô phỏng có thể sẽ tăng nhanh. Cẩn phải hạn chế số những mô phỏng “điều gì xảy ra nếu…” để dễ dàng hiểu chúng. Thứ hai, ảnh hưởng lên biến mục tiêu có thể lớn hoặc nhỏ. xếp hạng đầu vào tùy theo tác động lên biến mục tiêu là một cách làm thông thưởng để hạn chế số các đầu vào chỉ lấy những đầu vào quan trọng nhất.

     Một các biểu diễn tiện lợi cách phàn tích này là đổ thị “cơn lốc” (hình 38.1). Với một biến mục tiêu, đổ thị cơn lốc minh họa độ biến động thua lỗ danh mục đầu tư, tác động của những thay đổi nhất định của đầu vào. Sau khi khoảng thay đổi của đầu vào đã biết, thay đổi của biến mục tiêu sẽ được xếp loại từ lớn nhất tới nhỏ nhất. Phía trên của “cơn lốc”, những vạch dài biểu thị những thay đổi lớn nhất do những thay đổi đầu vào. Khi đi xuôhg, độ nhạy giảm và các vạch ngắn hơn, tạo ra hình “cơn lốc”. Những đầu vào quan trọng nằm ở trên. Trong hình 38.1, độ biến động thua lỗ danh mục đầu tư nhạy với nguy cơ, xác suất vỡ nợ và tương quan võ nợ, những biến khác ít quan trọng hơn. Minh họa này có thể được áp dụng cho bất kỳ phép đo rủi ro nào. Số lượng các nhân tố có thể tăng đáng kể. Khi đó, tách biệt những nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất càng quan trọng hơn.

     Phân tích độ nhạy chỉ đưa ra những hiệu ứng trực tiếp bậc một. Stress test sẽ toàn diện hơn. Hơn nữa, kỹ thuật factor-push thưởng được sử dụng khi nhân mạnh một nhân tố mỗi lẩn. Khi các nhân tố rủi ro phụ thuộc nhau, cần nhấn mạnh nhiều nhân tố đồng thời.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản trị rủi ro

Đặt tiêu chuẩn so sánh

     Một kỹ thuật khác không giống như back test nhưng cùng một mục đích đàm bảo độ tin cậy của dữ liệu. Đặt chuẩn so sánh bao gồm so sánh đầu ra của một số mô hình với các mô hình khác. Ví dụ, nhiều mô hình định giá của các công cụ thị trường áp dụng cho cùng một công cụ.     Một mô hình riêng lẻ áp dụng cho nhiều công cụ. Điều này cho phép đặt chuẩn so sánh đầu ra của nhiều mô hình áp dụng với cùng một công cụ và so sánh mô hình nào khớp đúng hơn với định chuẩn của một tập hợp công cụ riêng lẻ.

Đặt tiêu chuẩn so sánh

    Đặt chuẩn so sánh chỉ khả thi khi có những mô hình khác. Một số mô hình đơn giản hơn nhũng mô hình được sử dụng có thể ít chính xác hơn nhưng ít nhất có thể dùng đẽ kiểm tra khoảng độ lớn của ra. Vì có nhiều lựa chọn mồ phỏng, thường có thể thiết kế những mô hình đơn giản dùng làm chuẩn so sánh. Với rủi ro tín dụng, có những mô hình nội bộ cho vốn kinh tế. Điều này cho phép đặt chuẩn so sánh. Với các phép tính Basel 2, những mô hình nội bộ trong trạng thái “sản xuất”, dùng cho những phép tính định kỳ toàn ngân hàng. Nhưng các phép tính Basel 2 tất dễ để áp dụng cho những giao dịch riêng lẻ. Nó khiến cho đặt chuẩn so sánh khả thi bằng cách lấy mẫu một số giao dịch và so sánh đầu ra của mô hình “sản xuất” với phép tính mẫu. Nêu đầu ra giống nhau, không có vấn đề gì. Nếu không, vấn đề là cẩn tìm ra tại sao những khe hở này tồn tại. Đặt chuẩn so sánh cọ nghĩa là các phép tính có thể tra nguyên được.

         STRESS TEST, CÁC TÌNH HUỐNG GIẢ ĐỊNH VÀ PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY
        Stress test có mục đích tìm hiểu xác suất xảy ra những thua lỗ đặc biệt bằng cách tăng những giá trị của các nhân tố rủi ro. Nó là sự kết hợp của phân tích độ nhạy và kỹ thuật “factor-push”, bằng cách nhân mạnh những nhân tố ảnh hưởng nhất tới giá trị danh mục đầu tư. Kỹ thuật đòi hỏi xếp hạng các nhân tố rủi ro theo độ nhạy của danh mục đầu tư với chung. Vì những nhân tố rủi ro chính thay đổi theo thời gian, sự xếp hạng này cũng thay đổi.

       Bất kỳ stress test nào cũng đòi hỏi phân tích độ nhạy và dựa trên các kịch bản. Ví dụ, Basel 2 đòi hỏi stress test dựa trên những tình huống rời rạc trong ALM để tính thu nhập lãi và giá trị kinh tế. Lợi ích của các các kịch bản là chúng không phải là những hộp đen như Var. Lựa chọn những “factor push” mang tính phán xét, dựa trên những giá trị đặc biệt quan sát vào những giai đoạn nhất định và dựa trên phán đoán độ lệch sẽ đi xa bao nhiêu. Với danh mục đầu tư, xác định nil ùng tham số nào có thể gây ra những thua lỗ đặc biệt lớn không hề đơn giản vì thay đổi giá trị tài sản bù trừ cho nhau trong danh mục đầu tư.

       Ta lấy ví dụ một danh mục đầu tư tín dụng. Nhiều phân tích độ nhạy áp dụng với danh mục đầu tư. Để tiếp tục, ta cần tham khảo một trường hợp co sở và chỉ thay đổi một biến mỗi lần và sử dụng kỹ thuật factor push hay kỹ thuật “điều gì xảy ra nếu…”.